TỤ MÁU DƯỚI MÀNG ĐỆM: ĐẶC ĐIỂM VÀ TIÊN LƯỢNG
Bs. Nguyễn Hoàng Long, Bs. Hà Tố Nguyên
Động thai là một chẩn đoán thường gặp trong ba tháng đầu thai kì ở các thai phụ có triệu chứng ra huyết âm đạo và/hoặc có sự bóc tách túi thai trên siêu âm. Tuy nhiên đây là một thuật ngữ chưa chính xác và chẩn đoán cũng là một vấn đề cần phải chuẩn hoá. Ở 3 tháng đầu thai kì, màng ối chưa nhập vào màng đệm là một dấu hiệu sinh lý bình thường trên siêu âm, nhưng có thể bị chẩn đoán nhầm là động thai, túi thai bị bóc tách… Sự chẩn đoán sai không những dẫn đến việc can thiệp điều trị không cần thiết mà còn ảnh hưởng không tốt đến tâm sinh lý của người bệnh, thai phụ phải nghĩ việc, nằm dưỡng thai…Do vậy mục tiêu của bài này là nhằm giúp các bác sĩ siêu âm hiểu đúng về vấn đề này, từ việc sử dụng đúng thuật ngữ (tụ máu dưới màng đệm chứ không phải động thai) cho đến việc chẩn đoán chính xác trên siêu âm.
Tụ máu dưới màng đệm (subchorionic hematoma/ subchorionic hemorrhage) là hậu quả của sự bong mép nhau hay vỡ các xoang mạch máu ở rìa nhau, hình thành vùng máu tụ nằm giữa lớp màng đệm và cơ tử cung.
Tần suất
Tần suất máu tụ dưới màng đệm khoảng 1.3% thai kì bình thường và 39.5% thai có triệu chứng ra huyết âm đạo [5]. Tỷ lệ này tăng lên ở những trường hợp sử dụng các biện pháp hỗ trợ sinh sản. Kết quả một số nghiên cứu cho thấy tụ máu dưới màng đệm không chỉ ảnh hưởng đến thời điểm thai sớm như sẩy thai mà còn ảnh hưởng về sau trong quá trình phát triển như thai chậm tăng trưởng, tiền sản giật, nhau bong non, suy thai….
Hình ảnh màng ối chưa nhập vào màng đệm ở thai 3 tháng đầu
Đặc điểm trên siêu âm
Giai đoạn cấp tính: Khối máu tụ có phản âm dày hoặc đồng dạng so với phản âm nhau. Sau 1-2 tuần, khối máu tụ thoái hoá và có thể có phản âm kém hoặc trống.
Đến nay vẫn còn nhiều cách chia mức độ của khối máu tụ tùy thuộc vào từng nghiên cứu. Cách phân chia thường gặp nhất là sử dụng tỷ lệ khối máu tụ so với chu vi túi thai vì kích thước khối máu tụ là yếu tố quan trọng nhất để tiên lượng bệnh. Theo tác giả Bennet GL (1996) nếu khối máu tụ nhỏ hoặc trung bình (tỷ lệ 1/3-1/2 chu vi túi thai) thì tỷ lệ sẩy thai là 9% so với 18.8% nếu khối máu tụ có kích thước lớn hơn.
Tiên lượng
Kết quả nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, tụ máu dưới màng đệm có thể gây ra các biến chứng của thai kỳ sớm như sẩy thai, thai ngừng phát triển và các biến chứng muộn hơn của thai kỳ như sinh non, nhau bong non…Theo tác giả Irina O. Bushtyreva (2015) cho thấy rằng tụ máu dưới màng đệm làm tăng nguy cơ thai ngừng phát triển từ 6 – 12 tuần lên 5,75 lần. Tuy nhiên, đa số các nghiên cứu đều kết luận rằng nếu tụ máu dưới màng đệm đơn thuần không đi kèm với ra máu âm đạo sẽ không làm tăng nguy cơ thai chết trong tử cung.
Theo một nghiên cứu phân tích gộp của Kathy L. Kyser (2012) cho thấy rằng, tụ máu dưới màng đệm làm tăng nguy cơ sẩy thai lên 2,59 lần.
Cũng theo nghiên cứu của Kathy L. Kyser (2012) cho thấy tụ máu dưới màng đệm làm tăng nguy cơ sinh non lên 1,64 lần và nhau bong non lên 3,16 lần.
Quý đồng nghiệp vui lòng click vào khung bên dưới để xem video minh họa
TÀI LIỆU THAM KHẢO